CUỘC ĐỜI & TIẾNG GỌI
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn
cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời:
“Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay
làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi
thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong
đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy
Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến
sự sống.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo
thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì
càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí,
mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy,
để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”.
Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những
ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người
chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà
truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại
tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia
đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày
nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia
đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức,
năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Ảnh chân dung Thánh Phanxico Xavie (Nguồn google.com)
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước
Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô
Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của
thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi,
ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi,
ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng
sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm
ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở
Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu
Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em
trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc
tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng
đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong
lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng
đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ
Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo
Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào
Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh,
chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ
Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3.12.1552, được Đức Thánh
Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với
thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng
vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời
thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ
hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất
sự sống?" (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo
sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự
thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn
nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học
hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử
để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy,
một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn
liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả
lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có
gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết,
thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã
suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa.
Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy,
nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật
hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường;
không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ
vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở
kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp
thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống
và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi
nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã
liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức
Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha
Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng
Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh
và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô
Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô
Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài
cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con
người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với
Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh
quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với
tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức
công phá, không gì có thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng
với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn
thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ
tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô,
thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ
thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- “Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí
tôi” (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- “Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong
Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với
anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho
tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và
giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để
đến giữa dân ngoại” (Bt 20,14);
- “Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng
nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay
anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của
tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên
của anh em trên mình” (Bt 55,10).
- “Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà
tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma
xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta,
vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
- “Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ
tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu
còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
- “Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc
được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được
nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại
thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những
lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian
nan, bao nguy hiểm” (Bt 97,1).
- “Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống
không có gì chê trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ
các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là
hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba
đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha
Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở
bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động
để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật
Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học
tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho
họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công
cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không
bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6.5.1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt
tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là
Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo
rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả
cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ
tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận
kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động
nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó
đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về
Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài
tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng,
lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật
bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3.12.1552, mới 46 tuổi đời. Nói
theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dỡ…Nhưng đối với Thiên
Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc
phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia
sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để
chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không
có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ
ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo
đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh
nhân: “Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng
trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa
Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người” (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẳn sàng lên
đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên
Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc
sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong
đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn
bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng
đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu
truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng
gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con
người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có
thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời
Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài
để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân
thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị
ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất
quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi
ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để
"ra đi và rao giảng cho muôn dân" (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để
rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những
người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống
hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh
Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi
cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi
giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh
Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng
truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là
người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống
cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan
trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất
cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng
thăm", là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
Theo Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Đăng nhận xét